Phân tích bài Vợ nhặt của kim lân | Ngữ văn 12

Phân tích bài Vợ nhặt– Kim Lân chi tiết. Bài Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân dưới đây mang đến dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng bài văn mẫu hay nhất được chọn lọc. Bài viết này giúp các em có thêm nhiều gợi ý tham khảo để củng cố kiến thức, biết cách chọn lọc những ý hay khi làm bài để đạt được kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra.

 Dàn ý phân tích bài Vợ nhặt chi tiết

1.1. Dàn ý triển khai Mở bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt

– Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ngòi bút của ông tập trung viết về cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân lao động.

 

– “Vợ nhặt” được rút từ tập “Con chó xấu xí”, đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của ông viết về người nông dân, qua đó miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

 

1.2. Dàn ý phân tích phần Thân bài tác phẩm Vợ nhặt

a) Ý nghĩa nhan đề

“Vợ nhặt”: nghĩa là nhặt được vợ, nói lên sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm khốn cùng của con người trong nạn đói.

 

b) Tình huống truyện

– Tình huống truyện: Tràng – một chàng trai nghèo, xấu xí, mồ côi cha, ở với mẹ trong một xóm ngụ cư bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.

 

– Đây là một tình huống vô cùng độc đáo và bất ngờ: với chính bản thân Tràng (vì hoàn cảnh của Tràng rất khó mà lấy được vợ, tự dưng lại có vợ theo không về nên còn tự ngờ ngợ mình đã có vợ ư), với những người dân xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ thì vui có buồn có tủi nhục có.

 

– Tình huống éo le: trong hoàn cảnh gia đình và xã hội lúc bấy giờ không cho phép Tràng lấy vợ, bởi cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, nghèo khổ khó có thể làm chỗ dựa cho nhau.

 

c) Nhân vật Tràng

– Hoàn cảnh gia đình Tràng: là dân ngụ cư bị người khác khinh bỉ, cha mất sớm ở với mẹ già trong một ngôi nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …

 

– Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, hai bên quai thì hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, ăn nói vụng về, …

 

* Hai lần gặp gỡ và quyết định nhặt vợ:

 

– Lần gặp thứ nhất: qua lời hò vui của Tràng, đây chỉ là lời nói đùa của người lao động cho bớt mệt chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

 

– Lần gặp thứ 2:

 

Khi gặp lại, Tràng bị cô gái mắng, anh chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù chính anh cũng không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành, chất phác, tốt bụng.

Khi người đàn bà quyết định theo về: Tràng cũng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm một miệng ăn, nhưng rồi lại tặc lưỡi “chậc, kệ”. Điều đó nói lên rằng đây không phải quyết định của kẻ bồng bột, thiếu suy nghĩ mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao có được hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh để mua đồ: nói lên sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

* Trên đường về nhà:

 

Vẻ mặt Tràng vui vẻ “có cái gì phơn phởn khác thường”, miệng “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” … Đó là tâm trạng hạnh phúc, vui sướng và hãnh diện.

Mua dầu về thắp sáng ngôi nhà để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

* Khi về đến nhà:

 

Tràng xăm xăm bước vào trước để dọn dẹp sơ qua, vội thanh minh về sự bừa bộn vì trong nhà thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng lại rất chân thật, mộc mạc.

Khi bà cụ Tứ – mẹ Tràng chưa về, lúc này Tràng lại có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng khi nhìn thấy gia cảnh khó khăn của mình người vợ sẽ bỏ đi, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về nhà để có thể thưa chuyện vì dù trong cái cảnh đói khổ như thế thì vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Điều này thể hiện Tràng là đứa con biết lễ nghĩa.

Khi bà cụ Tứ về: Trang thưa chuyện với mẹ một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, lo lắng căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý đồng ý lòng Tràng mới thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

* Sáng hôm sau khi thức dậy:

 

Tràng nhận thấy sự thay đổi lớn trong ngôi nhà (sân vườn, ang nước được quét dọn sạch sẽ, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của ng với gia đình này.

Lúc ăn cơm Tràng nghĩ về hình ảnh đám người đói và lá cờ đang bay phấp phới. Đó chính là hình ảnh báo hiệu sự thay đổi và con đường đi mới.

⇒ Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ anh cu Tràng đã có những sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, tác giả ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của những con người trong cái đói.

 

d) Nhân vật người vợ nhặt

* Lai lịch:

 

– Là người không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến biết bao con người phải rời xa quê hương, gia đình.

 

– Đến cái tên cũng không có và chỉ được gọi qua cái tên “vợ nhặt”: qua đó thấy được sự rẻ mạt của con người trong cảnh đói.

 

* Chân dung, ngoại hình:

 

– Ngoại hình: quần áo thì tả tơi như tổ đỉa, người thì gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

 

– Lần gặp thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã chẳng ngần ngại mà vui vẻ chạy ra giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

 

– Lần gặp thứ hai:

 

Thị sưng sỉa mắng Tràng, khi được Tràng mời ăn trầu thì từ chối để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn bánh đúc thì lập tức ngồi sà xuống, mắt sáng lên và “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

Khi nghe Tràng nói đùa rằng “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã chẳng suy nghĩ mà theo về thật bởi trong cái đói khổ, đây chính là cơ hội duy nhất để thị bấu víu lấy sự sống.

⇒ Nhận xét: Cái đói, cái khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà làm thay đổi cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị bởi đó không phải là bản chất conn người mà chỉ do cái đói xô đẩy.

 

* Phẩm chất:

 

– Luôn tràn đầy sức sống mãnh liệt, khát khao được sống:

 

Quyết định theo Tràng về làm vợ mặc dù chưa biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về mà chẳng cần sính lễ vì chỉ có như thế thì thị mới không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, trái ngược với lời tuyên bố “rích bố cu”, thị đã “nén một tiếng thở dài”, dù buồn, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống tiếp.

– Thị là người con gái ý tứ và nết na:

 

Trên đường về, thị cũng rón rén e ấp đi phía sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

Về đến nhà, Tràng đon đả mời Thị ngồi nhưng chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay thì cứ ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ, biết điều khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.

Khi gặp mẹ chồng – bà cụ Tứ, ngoài câu chào thị chỉ lặng yên cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng ngùng.

Sáng hôm sau, thị dậy sớm dọn dẹp quét tước nhà cửa, lúc này Thị không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thay vào đó là vẻ hiền hậu, đúng mực.

Lúc ăn cơm, mới nhìn nồi cháo cám “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng để không làm bà buồn.

⇒ Nhận xét: Cái đói, cái khổ có thể cướp đi nhân phẩm trong một khoảnh khắc nào đó chứ vĩnh viễn không thể cướp đi tâm hồn con người.

 

– Thị còn là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai: kể chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng, đem niềm tin tới cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

 

– Nêu cảm nhận của bản thân về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

 

e) Nhân vật bà cụ Tứ:

– Giới thiệu nhân vật, ngoại hình, dáng vẻ: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, chân tay run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, miệng lúc nào cũng lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

 

– Bà bất ngờ trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch và ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà.

 

– Khi bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, thì “mắt bà nhoà đi”: bà thương cho đứa con trai phải lấy vợ nhặt, mà phải trong cảnh đói khát như lúc bấy giờ mới lấy được vợ, cũng thương cho người đàn bà khốn khổ kia cùng đường mới phải lấy con trai bà.

 

– Bà đối xử hiền hòa với nàng dâu mới: nhẹ nhàng nói với con dâu “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, khuyên răn, bảo ban các con làm ăn…

 

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, nhân hậu, chất phác và có lòng yêu thương con cái vô bờ.

 

1.3 Dàn ý Kết bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt

– Khái quát giá trị nghệ thuật của truyện ngắn:  xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách một cách tự nhiên; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, gần gũi.

 

– Giá trị nhân đạo của tác phẩm: nhà văn đã phản ánh chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng ca ngợi bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

about-star
about-star